Pages

Sunday, May 1, 2016

Ý nghĩa và quy chiếu (sense and reference)

Gottlob Frege, năm 1892, phân biệt nghĩa và quy chiếu, theo đó, một thuật ngữ đơn (singular term - a term that is inherently about the object to which it applies, theo cách Frege) có nghĩa theo hai cách.

Quy chiếu (reference) [vật quy chiếu/referent] của một danh từ riêng (proper name) là đối tượng nó mang nghĩa hoặc chỉ hiệu, nghĩa (sense) của nó là những gì tên ấy thể hiện. Quy chiếu của câu là giá trị đúng/chân lý (truth value), nghĩa của câu là tư tưởng mà câu thể hiện. [Xem thêm về truth-conditions semantics: ngữ nghĩa điều kiện đúng/hàm chân trị]



 Frege đưa ra 2 lí giải về sự phân biệt này:

1. Ý nghĩa (sense) là thứ gì đó của danh từ, bất kể nó có quy chiếu hay không. Chẳng hạn nghĩa của Odysseus là thông minh, và do đó có nghĩa, ngay cả không có một đối tượng cá thể nào tương ứng với danh từ.

2. Ý nghĩa (sense) của các danh từ khác nhau là khác nhau, ngay cả quy chiếu của chúng giống nhau. Nếu một mệnh đề như "Sao Hôm là tên hành tinh giống hành tinh Sao Mai" mang thông tin, vậy các danh từ riêng phải có meaning (nghĩa) hoặc sense (ý nghĩa) khác nhau.Nhưng rõ ràng là nếu một mệnh đề đúng, chúng phải có chung quy chiếu. Nghĩa là "một hình thức trình hiện", chỉ phục vụ để biểu thị duy nhất một khía cạnh đơn lẻ của quy chiếu.

Noted:

1) Sao Mai và sao Hôm đều chỉ cùng một vật quy chiếu là sao kim (Venus). Sau này còn có variable reference (quy chiếu đa biến), constant referencet (quy chiếu cố định) và co-reference (đồng quy chiếu). Sao Hôm và sao Mai đồng quy chiếu.


2) Sense (ý nghĩa) và meaning (nghĩa) khác nhau. Sense là ý nghĩa của từ, có được từ mối quan hệ cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Sense là cái được biểu đạt, ý nghĩa. Meaning là nghĩa của từ trong ngữ cảnh, nghĩa của từ ngoài bản thân nó, trong mối quan hệ với các yếu tố khác trong ngữ cảnh/người dùng.

3) Ở đây reference, referent rất hay bị lung tung hóa trong tiếng Việt. Có người dịch là sở chỉ (reference) và sở chỉ đối tượng (referent), có người coi là quy chiếu (reference) và sở chỉ (referent). Cái kiểu này rất dễ lộn xà beng với sở thị (detonation), sở biểu (signifier) và năng biểu (signified). Tôi thấy đơn giản hóa thế này:
- reference: quy chiếu
- referent: vật quy chiếu
- detonation: biểu thị/sở thị
- signifier: cái biểu đạt
- signified: cái được biểu đạt

4) Câu "Sao Hôm là sao Mai" rất nổi tiếng để minh họa cho ngữ nghĩa học về danh từ riêng. Tuy nhiên, sau này, nó còn được dùng để minh họa cho ý tưởng của Saul Krpke về tri thức cần thiết để phân biệt Sao Hôm và Sao Mai - có thể được phát hiện ra, thay vì là cái gì đó thuộc về tiên nghiệm (a priori).

Xem thêm bài này bàn về Rusell và cấu trúc mệnh đề: https://www.bu.edu/wcp/Papers/Lang/LangTati.htm