Pages

Wednesday, April 27, 2016

Một dẫn nhập về Tractatus

Đây là note mình (X) dịch lại bản đánh giá sách của tác giả (Y) về một khảo luận giới thiệu bằng Anh ngữ của tác giả (Z) cuốn kinh điển Tractatus của quý ngài Wittgenstein (W) bản Anh ngữ. Tốt hơn hết, nếu được, ta nên vọc luôn kinh điển Đức ngữ, kẻo lại tam sao thất bản rồi thấp thỏm với cái gọi là khả tín. Mình chỉ diễn nôm lại, sai sót của người review, của người viết sách về Tractatus mình không đảm bảo được, nhưng việc diễn nôm sai nếu có là lỗi [tất nhiên] của mình.

“[Bất cứ] ai hiểu những gì tôi nói sau rốt sẽ nhận ra [những nhận định trong Tractatus] là vô nghĩa, khi anh ta đã sử dụng chúng - như các nấc thang - để bám vào vượt lên trên chính chúng”, Wittgenstein viết trong đoạn văn áp chót, mục 6.54 Tractatus. Lời gợi nhắc mang vẻ nghịch lý này khiến độc giả của Tractatus hoàn toàn rối trí kể từ khi công trình ra mắt đến giờ, nhưng lại chưa từng trở thành chủ đề quan trọng được để tâm thảo luận, cho đến khi bài báo gây tranh cãi của Cora Diamond có tên “Vứt đi cái thang” xuất bản năm 1988. Diamond cho rằng, chúng ta sẽ hoàn toàn không nhận ra quan điểm trị liệu pháp và phản lí thuyết của Wittgenstein về triết học xuất hiện trong Tractatus, trừ khi chúng ta lưu tâm tới lời gợi nhắc của ông rằng những nhận định (statements) của tác phẩm là thực sự vô nghĩa, hiểu theo nghĩa đen. Trong khi cách tiếp cận “quả quyết” của Diamond có nhiều điểm lôi cuốn, nó cũng đặt ra một loạt câu hỏi, trong đó làm sao những nhận định xem ra khả thủ (có thể nắm bắt được) trong Tractatus lại có thể vô nghĩa và tại sao Wittgenstein bận lòng chấp bút (và chúng ta để tâm cầm đọc) một cuốn sách chứa toàn điều vô nghĩa. Các nhà bình luận đồng cảm với hướng tiếp cận của Diamond cố gắng đưa ra câu trả lời cho những vấn đề trên, trong khi những người phản đối quả quyết, không thể tìm được câu trả lời thoả đáng. Và rồi, cứ thế, người ta cãi vã nhau.


Cuốn Dẫn nhập vào Tractatus của Wittgenstein – tác giả Alfred Nordmann cho chúng ta thấy trao đổi của giới học giả về Tractatus đã thay đổi ra sao. Độc giả truyền thống có thể kỳ vọng một cuốn sách dạng dẫn nhập về Tractatus sẽ được thiết kế nhắm vào các chủ đề sau: Các thuyết luận lý/logic của Russell và Frege làm nền tảng chủ đạo, bản thể học (ontology) của thuyết nguyên tử logic (logical atomism); “thuyết bức tranh” về ngôn ngữ; thuyết nhận định logic như những sự trùng phức; quan điểm của các nhà nghiên cứu Tractatus về hiểu biết/tri thức, tâm trí, duy ngã luận (solipsism), toán học, khoa học, đạo đức học và tính “huyền nhiệm”. Mặc dù Nordmann kiến giải một số chủ đề trên, nhất là thuyết bức tranh, sự lưu tâm chính yếu của tác giả là trả lời một câu hỏi duy nhất mà chính tác giả đã đưa ra như sau: làm thế nào liệu nó có thể cho chúng ta thấy “Tractatus được viết bằng một thứ ngôn ngữ vô nghĩa và [qua đó] nó đưa ra một luận điểm đầy thuyết phục” (trang 8, nghiêng là nguyên bản). Chúng ta hãy gọi đây là “Câu hỏi Quan yếu” để thuận tiện cho quy chiếu sau này. Sách của Nordmann chia làm 5 chương, mỗi chương gồm một bước tiến tới việc trả lời cho Câu hỏi Quan yếu. Tôi tự hỏi có bao nhiêu học giả Wittgenstein, kể cả những độc giả “quả quyết”, sẽ hài lòng với ý tưởng sắp xếp phần giới thiệu về Tractatus quanh chủ đề về tính vô nghĩa của nó; tôi đương nhiên là có những hồ nghi. Nhưng bất kể có phù hợp hay không với một cuốn sách giới thiệu, nó chắc chắn sẽ là một đóng góp đáng kể để hiểu Tractatus nếu Nordmann thành công trong việc tìm ra một câu trả lời thỏa đáng cho Câu hỏi Quan yếu ấy. Mặc dù Nordmann đưa ra những ý tưởng mới lạ và thú vị trong cuốn sách, đánh giá của tôi, nhìn chung là, tác gỉả đã chưa tới đích.

Trong chương 1 của cuốn sách, Nordmann giới thiệu cơ sở cho các trao đổi về sau bằng cách đặt Tractatus vào truyền thống của “triết học phê phán”, truyền thống mà tác giả mô tả đây là nỗ lực tìm “một cơ sở trung vị giữa chủ nghĩa giáo điều (dogmatism) và chủ nghĩa hoài nghi (skepticism)” qua việc thẩm tra “ngôn ngữ loài người hoặc lí do/nguyên cớ để quyết định những tiền giả định hàm ẩn [ngầm/implicit], những khả năng/năng lực của nó, những giới hạn của nó” (trang 14). Nordmann chọn Immanuel Kant, Georg Lichtenberg và Heinrich Hertz là ba tay tổ của triết học phê phán, những người có sức ảnh hưởng lớn nhất tới thời kỳ đầu của Wittgenstein, và bàn về những điểm gặp gỡ giữa tư tưởng của các tên tuổi trên với Wittgenstein trong Tractatus. Ở đây, Nordmann đặt ra một giả định có phần hợp lý, với những thảo luận của tác giả về sự tương hợp giữa Lichtenberg và Wittgenstein, vốn vẫn ít được nghiên cứu, là đặc biệt thú vị. Nhưng chúng dường như là một sự khác biệt quyết định, giữa một bên Kant, Lichtenberg và Hertz, một bên là Wittgenstein, sự khác biệt có ý nghĩa trực tiếp tới Câu hỏi Quan yếu: Cách Wittgenstein vạch ra những giới hạn của ngôn ngữ và tư tưởng trong Tractatus xem ra chạm đến gốc gác, hơn nhiều so với các nhà tư tưởng trên. Chẳng hạn, Kant nổi tiếng với việc chỉ ra giới hạn của lí trí con người bằng luận đề cho rằng chúng ta không thể biết bất cứ thứ gì nằm bên ngoài kinh nghiệm của mình, nhưng triết gia này vẫn chiếu cố rằng chúng ta ít nhất có thể nghĩ về nó. Xem chừng không có sự giống nhau giữa sự phân biệt hiểu biết/tư tưởng này với giới hạn của ngôn ngữ và tư duy trong Tractatus như Wittgenstein đã viết “những gì tọa lạc ở phía ngược kia của giới hạn sẽ đơn giản là vô nghĩa” (Lời đề từ, trang 3). Do đó, một cách để khai thác lưu ý/gợi nhắc có vẻ nghịch lý trong 6.54 có thể sẽ không còn khả dụng, nói cách khác những nhận định trong Tractatus có thể vẫn được hiểu nếu chúng là vô nghĩa theo nghĩa chúng không thể được hiểu rõ.

Giờ thì, hóa ra Nordmann nghĩ rằng Tractatus chứa đựng những điểm tương đồng với cách Kant phân biệt tri thức/tư tưởng. Nhưng chúng ta phải đọc đến phần hai của chương 4 và 5 để thấy được sự phân biệt này là gì và bằng cách nào tác giả đã luận giải cho điều đó. Từ chương 2 tới phần đầu của chương 4, thay vì Nordmann tiếp tục đi sâu tìm hiểu để trả lời Câu hỏi Trọng tâm, lần này, tác giả trực tiếp bàn về Tractatus. Chương 2 bàn tiếp và bảo vệ luận điểm cho rằng Tractatus có một “luận điểm bao quát/thống ngự” (overarching argument) và rằng nó có hình thức của phương pháp bác bỏ luận đề bằng cách giảm trừ [về] phi lý (reductio ad absurdum). Nordmann cho rằng luận đề này có những giả thuyết chính sau:

(OA) Chúng ta có thể diễn đạt bất kỳ nghĩa nào dẫu là bằng chữ viết hai chiều của chúng ta, đó là, không gì là không thể diễn đạt được bằng lời và mọi nghĩa đều ở trong thế giới và trong những giới hạn của ngôn ngữ.

Một hệ quả tất yếu suy ra từ (OA) là:

(OB) Những phát ngôn (OA) là không vô nghĩa.

Tuy nhiên, theo Nordmann, Wittgenstein rút ra từ (OA) và (OB) kết luận sau, có thể tìm thấy trong mục 6.522 của Tractatus:

(C) Có những khi không diễn đạt được bằng lời.

Nordmann cho rằng (C) dựa trên cơ sở của thuyết bức tranh về ngôn ngữ. Theo thuyết bức tranh, các câu đúng có khả năng diễn đạt của chúng thông qua các hình thức luận lý chúng chia sẻ với các khả sự [Vượng]/chiểu sự [Phạm Tấn Xuân Cao]/sự tình [Cao Xuân Hạo, Trịnh Hữu Tuệ]/trạng huống[Cao Dao]/chuyện [Nguyễn Quỳnh] (states of affairs/atomic facts) chúng trình hiện (represent). Nhưng tất cả các sự tình đều có đặc điểm là ngẫu nhiên trong đó chúng có thể hiện hữu hoặc không. Do thế, các câu đúng không thể trình hiện những gì là không ngẫu nhiên, trong đó bao gồm, theo như Wittgenstein, các vấn đề về bản chất quan yếu của luận lý, ngôn ngữ, thế giới và các giá trị. Các vấn đề ấy là không thể diễn đạt được; do vậy [dẫn đến ] (C). Bây giờ chúng ta có thể coi (C) là mâu thuẫn với (OA) và cả (OB) vì (C) ngụ ý rằng các phát ngôn như (OA) là thực sự vô nghĩa. Hơn thế, chúng ta có thể kết luận rằng các phát ngôn trong Tractatus là vô lý vì chúng nói chính xác về bản chất quan yếu của luận lý, ngôn ngữ, thế giới, và các giá trị. Tractatus là độc nhất vô nhị và trong đó, nó đã kết thúc bằng việc chối từ chính những giả thuyết nó đã đề ra.

Người ta có thể đặt ra rất nhiều câu hỏi ở đây, bao gồm liệu Tractatus thực sự có một luận đề bao quát/thống ngự và liệu nó có được viết theo hình thức giảm trừ [về] phi lý. Nhưng tôi sẽ không bàn về vấn đề đó, khi tôi có sẵn một câu hỏi cơ bản hơn nhiều. Khi người ta từ khước từ tiền đề trong luận đề-theo phương pháp giảm [về] phi lý, những gì người ta từ khước chỉ là tính đúng [đắn] của nó, chứ không phải ý nghĩa của nó: nếu như tiền đề của luận đề-theo phép giảm trừ là không có ý nghĩa, nó sẽ không thể đóng một vai trò là một tiền đề. Nhưng kết luận căn bản của luận đề theo phương pháp giảm trừ [về] phi lý của Wittgenstein dường như chối bỏ chính cái ý nghĩa của tiền đề với hàm ý rằng nó là vô nghĩa. Bản thân Nordmann cũng hiểu rõ vấn đề này khi thừa nhận “những gì chúng ta cần để hiểu là làm thế nào…. các câu của Wittgenstein là vô nghĩa mà không trở nên tự phủ định, vô nghĩa để truyền thụ hoặc để giải minh” (trang 79).

Bản chất căn bản trong kết luận của Wittgenstein đặt ra một vấn đề tương tự mà Nordmann thảo luận trong chương 3, khi tác giả nghiên cứu các câu văn giống với các nhận định của Tractatus và đề xuất rằng chúng xem như những câu cách ngôn một cách hữu lý [hữu ích].

Dựa vào các công trình của Gerhard Neumann, Franz Mautner và J.P.Stern, Nordmann xem những câu cách ngôn là những ghi chép cá nhân về những ý tưởng đã thực sự xảy đến với tác giả mà tuy thế vẫn được xem là không ngôi và khách quan. Điểm mâu thuẫn này giữa đặc tính vừa thuộc về cá nhân vừa không ngôi của các câu cách ngôn, Nordmann cho rằng, gợi ý cho độc giả tương tác cùng và diễn tả những thử nghiệm tư tưởng sau những ý tưởng của tác giả ghi lại nơi các câu cách ngôn. Cụ thể, xem xét trường hợp Tractatus, Nordmann cho rằng mỗi một nhận định như một câu cách ngôn là một thử nghiệm tư tưởng tiểu hóa mà nó được viết ra với mục đích thách thức độc giả dõi theo khắp quá trình thử nghiệm tư tưởng tổng quát của Wittgenstein trong một luận đề theo phương pháp giảm trừ về phi lý, nơi cái mục đích sau cùng là khiến độc giả nhận ra rằng mỗi nhận định trong Tractatus đều vô nghĩa. Đây là một ý tưởng thú vị, nhưng nếu nó là hợp lý, chúng ta cần nắm rõ hơn làm cách nào các nhận định trong Tractatus có thể là các câu cách ngôn theo kiểu Nordmann đã xác định nếu chúng đơn giản là vô nghĩa.

Lại một lần nữa, lại có một vấn đề tương tự dấy lên trong thảo luận của Nordmann ở phần nhất chương 4. Trong phần này, Nordmann nghiên cứu đặc điểm ngữ pháp trong các nhận định của Tractatus và đề xuất rằng chúng nên được hiểu như những giả định (subjunctives) hàm ẩn. Theo tác giả, câu đầu tiên trong TractatusThế giới là toàn bộ những hiện trạng (Vượng)/ sự thật (Trịnh Hữu Tuệ)/hoàn cảnh(Nguyễn Quỳnh), (những) gì được hình thành (Cao Dao)” nên được hiểu như sau:

Nếu bất cứ ý nghĩa có thể được diễn đạt bằng lời và tôi đã muốn diễn đạt những tư tưởng về mối quan hệ của ngôn ngữ và thế giới, điều đầu tiên nảy nở trong tôi ấy là thế giới là toàn bộ hiện trạng/sự thật/hoàn cảnh/những gì được hình thành” (trang 138).

Với việc coi các nhận định trong Tractatus là các giả định, Nordmann cố gắng đưa ra một cách kiến giải hợp nhất trong chương 2 và 3. Theo tác giả, cả luận điểm- theo phép giảm trừ/giản quy của Tractatus và những nhận định mang tính cách ngôn cá nhân có đặc điểm chung là thuần giả thuyết và theo đó có thể được viết tốt nhất dưới dạng thức giả định/bàng thái cách (subjunctive mood). Điều này, lần nữa, lại là một ý tưởng thú vị, nhưng chúng ta cần nắm được bằng cách nào các nhận định trong Tractatus có thể đóng vai trò của những giả thuyết trong thức giả định/bàng thái cách nếu chúng đơn giản là vô nghĩa.

Nói ngắn gọn, những gì cần kíp với Nordmann là biểu thị sự vô nghĩa như giả định của các nhận định trong Tractatus không ngăn chúng đóng những vai trò nào đó tác giả đưa ra từ chương 2 tới phần đầu tiên của chương 4. Nordmann bắt đầu giải quyết nhiệm vụ này trong phần 2 của chương 4, và quan điểm chính của tác giả là ngoài mong đợi và đáng ngạc nhiên. Tractatus xếp các câu thành ba nhóm: các câu có nghĩa (=các câu của khoa học tự nhiên), các câu [không hẳn là] vô nghĩa nhưng có nghĩa bất thụ/senseless (=những sự trùng phức và những sự mâu thuẫn) và các câu vô nghĩa (=các nhận định triết học và siêu hình học). Giờ quan điểm của Nordmann là còn có một nhóm các câu khác, được gọi là các câu vô nghĩa nhưng không bất thụ nghĩa, và rằng những nhận định trong Tractratus chính xác thuộc về nhóm này. Đây là lí do tại sao các nhận định trong Tractratus có thể được dùng để vạch ra những giới hạn của ngôn ngữ và tư tưởng, tại sao chúng có thể đóng vai trò của tiền đề trong luận điểm-theo kiểu giảm trừ/giảm trừ, và tại sao chúng có thể là những giả thiết cách ngôn thức giả định/bàng thái cách mà gợi nhắc độc giả tiếp cận với những thử nghiệm tư tưởng của Wittgenstein.

Thế nào là “vô nghĩa nhưng nghĩa không bất thụ/không không mang nghĩa” (nonsensical but not senseless) theo ý Nordmann? Theo tác giả, một câu là vô nghĩa trong Tractatus nếu về mặt ngữ pháp nó không logic, nếu nó vi phạm “cú pháp logic”, trong khi nó là vô nghĩa nếu nó không có một điều kiện-chân trị (truth-condition). Do đó, có vẻ như, xem ra Nordmann cho rằng những nhận định trong Tractatus đã vi phạm cú pháp logic nhưng vẫn có các điều kiện-chân trị. Nhưng hóa ra, đây không phải những gì Nordmann hàm ý, khi tác giả cho rằng các nhận định trong Tractatus như các giả định không có các điều kiện-chân trị: theo cách diễn giải của tác giả, thuyết bức tranh có một hệ quả mà chỉ có duy nhất một câu trong thì hiện tại và mệnh lệnh thức có thể có một điều kiện chân trị. Những gì Nordmann thực sự hàm ý rằng những nhận định trong Tractatus trở nên “vô nghĩa nhưng nghĩa không bất thụ/không không mang nghĩa” đó là chúng bất thụ nghĩa/không không mang nghĩa trong nghĩa khác của “sự bất thụ nghĩa/sự vô nghĩa”, tương ứng với nghĩa khác của “nghĩa” trong Tractatus. Theo Nordmann, loại thứ hai, có khái niệm “rộng hơn” về nghĩa tương ứng với khái niệm đầy ý nghĩa hay có lý, như khi chúng ta nói về “nghĩa của hành động này”, hoặc “ý nghĩa của đời ta”. Hãy gọi việc hiểu “nghĩa” và việc hiểu tương ứng của sự vô nghĩa “sự vô nghĩa”, lần lượt một. Để rồi, chúng ta có thể hiểu được đề xuất của Nordmann khi cho rằng các nhận định trong Tractatus là vô nghĩa (vi phạm cú pháp logic), bất thụ nghĩa (thiếu các điều kiện chân trị), nhưng không bất thụ nghĩa (=không phải không có lý/not pointless). Nếu vậy, tuy nhiên, việc phân loại các câu của Nordmann thành bốn nhóm như trên là rối rắm, khi nó đương nhiên đưa người đọc vào giả định rằng tác giả đang nói về nhận thức tương tự về sự bất thụ nghĩa khi tác giả trình bày rằng sự trùng phức và mâu thuẫn là bất thụ nghĩa nhưng không vô nghĩa trong khi các câu trong Tractatus là vô nghĩa (nonsensical) nhưng không bất thụ nghĩa (not senseless).

Nhưng sự rối rắm này sẽ không quá quan trọng nếu Nordmann đúng rằng các nhận định trong Tractatus có ý nghĩa mặc dù chúng thiếu nghĩa. Chúng ta có lí do để nghĩ vậy không? Đó là câu hỏi Nordmann giải quyết trong chương 5. Các luận bàn liên quan trong chương này được xem là quan trọng nhất đối với mục tiêu [cuốn sách] của Nordmann, nhưng thật không may, chúng cũng đồng thời là những vấn đề hóc búa nhất. Nordmann thừa nhận Wittgenstein trong Tractatus không bàn về liệu các nhận định của tác phẩm có ý nghĩa hay không. Theo đó, tác giả lý giải cho các câu gợi nhắc của Wittgenstein bằng cách trích dẫn các tác phẩm khác, gồm cả các công trình ở giai đoạn sau, như là chứng lý từ chương hỗ trợ. Nhưng tôi lấy làm hồ nghi về độ khả tín của chiêu diễn giải ấy. Hơn thế, tôi không thấy các trao đổi này thuyết phục. Nordmann cho rằng việc các nhận định trong Tractatus như các câu cách ngôn và theo lối giả định cách/bàng thái cách là có thể xem như những cử chỉ điệu bộ, sự diễn tả và âm nhạc trong đó mà những điều này có thể chuyển tải những điểm nào đó vượt ra ngoài ý nghĩa ngôn ngữ. Nordmann nỗ lực bảo vệ nhận định này của mình bằng việc chú giải các đoạn lưu ý/gợi nhắc rải rác của Wittgenstein về điệu bộ cử chỉ, sự diễn tả, và âm nhạc trong các giai đoạn ban đầu và về sau. Tuy nhiên, như tôi thấy, chẳng có sự biểu thị nào trong những những gợi nhắc này mà các nhận định của Tractatus có ý nghĩa, kể cả chỉ duy sự biểu thị có nghĩa theo cách các cử chỉ điệu bộ, sự diễn tả và âm nhạc chuyển tải các cứ lý/ý nghĩa phi ngôn ngữ học.

Mặc dù thế, chúng ta hãy giả định với Nordmann rằng các nhận định trong Tractatus có ý nghĩa, theo nghĩa, các cử chỉ điệu bộ, sự diễn tả, và âm nhạc chuyển tải các cứ lý phi ngôn ngữ học. Liệu điều này có đưa đến một câu trả lời thỏa mãn cho Câu hỏi Quan yếu? Tôi không nghĩ vậy. Bằng việc định nghĩa, rằng một câu có chỉ một nghĩa có thể hoặc đúng hoặc sai, giống như cử chỉ điệu bộ, sự diễn tả, và câm nhạc có thể đúng hoặc sai. Nhưng hãy xem lại Câu hỏi Quan yếu của Nordmann về bằng cách nào nó có thể cho thấy các nhận định trong Tractatus là vô nghĩa nhưng vẫn dẫn đến một luận điểm đầy thuyết phục. Trừ khi ở đây Nordmann hàm ý một điều gì đấy hoàn toàn khác với thuật ngữ “luận điểm, luận điểm liên quan phải gồm những nhận định có thể có các giá trị đúng mà nó có thể đảm bảo tính chân xác mà nó kết luận nếu các tiền đề của nó đều đúng. Nhưng làm thế nào các nhận định trong Tractatus dẫn tới một luận điểm, bất kể là có hình thức giảm trừ hoặc trực tiếp, nếu chúng có chỉ các ý nghĩa và do đó có thể chẳng đúng hoặc sai? Nordmann thừa nhận rằng các tiền đề và kết luận của luận điểm giảm trừ/giản quy trong Tractatus không thể có giá trị đúng, nhưng vẫn bảo lưu quan điểm rằng nó là một luận điểm hợp lý (Trang 197-199). Thú thật là tôi không hiểu ý tác giả là gì.

Liên quan tới vấn đề này, tôi nên nói qua đây về sự khó khăn dấy lên vì thuyết bức tranh trong câu trả lời của Nordmann với Câu hỏi Quan yếu. Như chúng ta đã thấy, thuyết bức tranh đóng vai trò quan trọng trong việc cấu trúc lại hai luận điểm của Wittgenstein theo ý Nordmann, cái đầu tiên trở thành luận điểm-giảm trừ thống ngự và thứ hai, rằng các nhận định trong Tractatus như các giả định không có điều kiện đúng. Để các tranh luận trên hữu lý, lúc này, chúng ta phải giả định rằng thuyết bức tranh là đúng, hoặc nói chính xác hơn, các nhận định chứa thuyết bức tranh là đúng. Nhưng làm thế nào để Nordmann thực hiện, vì các nhận định này là một phần trong các nhận định của Tractatus mà được giả định là không có các giá trị đúng?

Nói ngắn gọn, Nordmann đang ở thế song đề: hoặc tác giả phải thừa nhận Tractatus không chứa bất kì nhận định nào, theo đó tác giả sẽ không thể trả lời được Câu hỏi Quan yếu, hoặc Nordmann phải thừa nhận rằng các nhận định trong Tractatus có thể có giá trị đúng, theo đó tác giả sẽ không thể cho thấy rằng chúng là vô nghĩa. Tôi không rõ là làm thế nào Nordmann có thể thoát ra cái thế tiến thoái lưỡng nan này.

Trước khi khép lại bài đánh giá này, hãy cho phép tôi thêm một vài dòng về những sự khó khăn trong việc viết một bản giới thiệu Tractatus. Như đã từng viết ở trên, tôi khá hồ nghi về lựa chọn cách tổ chức nội dung trong một cuốn sách giới thiệu về Tractatus xoay quanh chủ đề tính vô nghĩa của nó. Mặt khác, tuy nhiên, tôi có thể dám chắc là mình hiểu rõ ý định của tác giả. Bất kể các nhận định trong Tractatus là thực sự vô nghĩa như Wittgenstein cố thuyết phục vẫn là, không còn phải bàn cãi gì nữa, câu hỏi nền tảng nhất của Tractatus, vì nó ảnh hưởng tới cách hiểu của chúng ta về tất cả các nhận định có trong văn bản. Như tôi đã chỉ ra ở ngay phần đầu, tuy nhiên, các nhà phê bình về cuốn sách phân rẽ rành rành tương ứng với câu trả lời nào là phù hợp. Với tình thế này, dường như với tôi, vẫn còn là quá sớm để mong chờ một bản giới thiệu Tractatus xứng tầm với một bản giới thiệu như tường có với Cộng hòa của Plato, Những suy niệm của Descartes hay Phê phán lí tính thuần túy của Kant. Chúng ta đều tương đối đồng tình rằng những người viết các bản giới thiệu ấy đều chạm tới các tác phẩm triết học kinh điển trên. Tuy nhiên, trong khi trường hợp của Tractatus thì chưa, ít nhất là đến giờ.

Thanks Phạm Tấn Xuân Cao đã giúp tu chỉnh bản khởi nháp nhiều chỗ quan trọng.


Nguồn: https://ndpr.nd.edu/news/25168-wittgenstein-s-tractatus-an-introduction/