Pages

Sunday, May 1, 2016

Triết Tây

Vắn lược:

1) Triết không lạc lối, không nằm trong tháp ngà, chẳng qua ta chẳng biết nó có cái gì. Thậm chí, gần đây, đóng góp của nó dữ dằn trong cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, toán, rồi cả vấn đề đạo đức đúng sai, mà nhóm sau thì không phải là trọng tâm.

2) Giai đoạn 1930 -1950 một số tay, trong đó có thực chứng luận lý (logical empiricists) cố tình khởi tạo một đường hướng riêng dành cho triết, tuy nhiên, các chủ đề mà phân tích luận lý hướng tới chính là một hợp thể của mọi khoa học. 2 thập kỷ liền ở Anh quốc, triết học "hợp chủng quốc" với phân tích ngôn ngữ phi hình thức (informal linguistics analysis). Đóng góp hơi ít nhưng vẫn có cho ngôn ngữ và luật.

3. Từ 1879 đến 1936, Gottlob Frege, Bertrand Russell, Kurt Gödel, Alonzo Church và Alan Turing phát minh ra logic biểu tượng/kí hiệu, đặt nền móng lí thuyết cho toán học với thuyết tập hợp (set theory), và lí thuyết hình thức cho điện toán.

4. Trong ngôn ngữ học, từ 1945 đến 1975, Rudolf Carnap, Saul Kripke, Richard Montague và David Kaplan phát triển ý tưởng liên quan đến logic trong nghĩa ngôn ngữ, đặt nền tảng cho việc nghiên cứu nghĩa trong ngôn ngữ loài người.



5. Cũng trong ngôn ngữ, Paul Grice và J.L. Austin giải thích nghĩa ngôn ngữ hòa kết (mix) với thông tin ngữ cảnh ra sao, làm giàu/đa dạng nội dung giao tiếp, việc các hành ngôn (linguistic performances) thay đổi sự kiện xã hội ra sao. Ngày nay, từ quan niệm triết học về mối quan hệ giữa nghĩa và tri nhận bổ sung một chiều kích nữa vào khoa học ngôn ngữ.

6. Thuyết quyết định (quyết định thuyết - decision theory) -khoa học nghiên cứu các quy chuẩn lí tính (rational norms) chi phối hành vi, niềm tin và quyết định trong những hoàn cảnh không xác định với đóng góp của Frank Ramsey, Rudolph Carnap, Richard Jeffrey và các tác giả khác. Đóng góp chủ yếu là trong khoa học chính trị và kinh tế. Hiện nay, đây là nhánh rất hót với sinh viên triết:-)

7. Đóng góp với tâm lý học: Giúp các nhà nghiên cứu thoát ra được các phân loại theo hành vi luận hạn hẹp và thuyết Phớt (Freudianism) theo lối phỏng đoán (tư biện). Giữa thế kỉ XX thì có thuyết chức năng luận (functionalist perspective), theo đó đau đớn, sung sướng hay niềm tiên chẳng phải bắt nguồn từ tâm tính hay trạng thái thần kinh thuần túy, thay vào đó là một loạt các nguyên nhân nội tại, từ những nhận thức thể lý khác nhau, phục vụ  các mục đích cá nhân theo những cách khác nhau.

8. Triết học còn có đóng góp quan trọng trong vật lý học.

Cụ thể đây:


http://opinionator.blogs.nytimes.com/2016/03/07/philosophys-true-home/?_r=0

No comments:

Post a Comment