Ngày cậu con chào đời, ông bà đã lấy nhau được một thời gian; hai chục năm vụt trôi, cả hai bắt đầu luống tuổi. Mái tóc vắn cẩu thả của người vợ đã ngả màu muối tiêu. Trên người là bộ váy màu đen rẻ tiền. Không giống những người phụ nữ khác cùng lứa (chẳng hạn như bà Sol hàng xóm, khuôn mặt bà lúc nào cũng ửng hồng và phớt tím nhờ son phấn, mũ bà đội là chùm hoa ngắt từ ven suối), bà chường cái mặt trắng nhợt độc mộc ra dưới cái nắng khó ưa của mùa xuân. Chồng bà, hồi xưa, cái thời ở quê cũ chưa sang Mỹ, vốn là một doanh nhân tương đối thành đạt, giờ thì tại đây New York lại sống hoàn toàn dựa hơi vào người anh trai Issac, một người "chuẩn" Mỹ gần bốn chục năm. Cả hai hiếm khi thấy mặt Isaac, và gán cho ông anh cái biệt danh "Hoàng tử".
Thứ Sáu hôm ấy, đúng cái ngày sinh nhật cậu con, mọi thứ rối như canh hẹ. Tàu điện ngầm mất tuyến giữa hai ga, và trong suốt gần tiếng đồng hai ông bà già chẳng nghe ngóng được gì, ngoài cái nhịp đập công vụ của quả tim với tiếng sột soạt người ta trở báo. Tuyến bus kế tiếp cũng tới trễ, khiến cả hai đứng đợi ở góc đường một hồi lâu, và khi nó tới, một toán học sinh trung học nhặng xị đã nhét đầy xe. Trời bắt đầu lất phất mưa khi cả hai cuốc bộ lần theo một con đường nhỏ màu nâu dẫn đến khu viện dưỡng thương. Họ lại phải đợi, một lần nữa khi đã tới nơi, và thay vì cậu con lết chân đến phòng chờ như mọi khi vẫn thế (cái khuôn mặt khốn khó của cậu, tần ngần, méo mó và lốm đốm mụn trứng cá), một cô y tá mà cả hai chẳng lạ mặt và không lấy làm bận tâm xuất hiện, cố giải thích rành rọt, rằng cậu con lại một lần nữa cố tự tử. Cậu vẫn ổn, cô nói, nhưng hai cụ tới thăm có thể khiến cho cậu rối trí. Khu viện dưỡng thương tồi tàn chẳng đủ nhân viên nhân viên phục vụ, mọi thứ trở nên nhầm nhọt và dễ dàng thất lạc khiến cho cả hai đi đến quyết định sẽ không để lại món quà sinh nhật ở văn phòng mà định bụng mang đến cho cậu con ở lần thăm tới.
Bên ngoài khuôn viên, bà đợi chồng mở chiếc ô và nắm lấy tay ông. Ông không ngừng ho, hệt như những lúc ông buồn bã. Cả hai nhẩn nha tới trạm xe bus phía bên kia đường và ông cất chiếc ô. Cách đó vài bước chân, ngay dưới một tán cây rung rinh sũng nước, một chú chim bé xíu tội tình còn chưa đủ lông cánh co quắp tuyệt vọng trong vũng nước.
Trên quãng đường dằng dặc trở lại bến tàu điện ngầm, chẳng ai mở miệng lấy một lời, và mỗi lần loáng thoáng thấy đôi bàn tay già nua của ông lão, túm chặt và co quắp để giữ chiếc ô, những đường gân to hơn bình thường trên lớp da đồi mồi, bà cảm thấy một cơn nghèn nghẹn u uất, như muốn trực trào nước mắt. Ngó nghiêng xung quanh, cố níu cho tâm trí mình víu vào một thứ gì đấy, một cảm giác kinh ngạc nhè nhẹ xâm lấn, hòa lẫn giữa thương cảm và nghi hoặc khi bà để ý thấy một trong số các hành khách - cô gái có mái tóc đen với móng tay sơn đỏ - đang khóc trên vai một người đàn ông hơn tuổi. Cô ấy giống ai không biết nữa? Trông như Rebecca Borisovna, người có đứa con gái được gả cho một gã người Soloveichiks ở Minsk một vài năm trước.
Lần dại dột gần đây nhất của thằng con, cái trò của nó, theo lời bác sĩ, là một trác tuyệt của sự sáng tạo; nó hẳn đã thành công, nếu thằng bạn nó, một con bệnh khác, không vì ghen tị khi tưởng nó đang tập bay và vì thế kịp thời ngăn cản. Tất cả những gì nó ước muốn trong đời, là chọc được một cái lỗ thủng trong thế giới bao bọc nó, và trốn thoát.
Chuỗi hoang tưởng của nó từng trở thành một chủ đề được mổ xẻ nhiều kì đăng tải trên tờ nguyệt san khoa học mà bác sĩ trong viện dưỡng thương cũng đã đưa cho hai ông bà đọc. Tuy nhiên, trước đó một hồi lâu, hai ông bà đã tìm được lời giải cho mình. "Bệnh hoang tưởng do liên tưởng", bài báo gọi tên chứng bệnh. Trong những trường hợp bệnh tình hiếm hoi kiểu này, bệnh nhân sẽ mường tượng mọi thứ diễn ra xung quanh đều như đang lập lờ bàn tán về phẩm tính và sự hiện hữu của mình. Con bệnh cho rằng, những người thực hữu sẽ không tham gia vào cái âm mưu ấy, vì anh ta tự coi bản thân mình thông thái hơn rất nhiều so với những người xung quanh. Bà mẹ thiên nhiên tuyệt diệu theo gót anh ta, bất kể anh ta đi đến nơi đâu. Những đám mây trên bầy trời đầy sao nhỏ to với nhau, bằng cách gửi đi những tín hiệu chậm rãi, trong đó có mọi thông tin chi tiết đến mức không thể tin nổi về anh ta. Ban khuya, những ý nghĩ sâu sa nhất của anh ta sẽ bị mổ xẻ, từng thứ một tuần tự theo bảng chữ cái, bởi những hàng cây khoa tay múa chân trong bóng đêm. Những hòn đá cuội, một vài vết ố, hay những vệt sáng lốm đốm của mặt trời túm tụm lại thành một thứ họa đồ, theo những cách thật kinh khủng, mang thông điệp mà anh ta phải chặn lại. Mọi thứ đều trở thành mật mã và mọi chủ đề đều xoay quanh anh ta. Bên cạnh anh là một bầy gián điệp. Một số là những kẻ ngòm ngó lơ đễnh, như những mặt kính, hay những vũng nước lặng tờ; một số khác, ví như mấy bộ áo bành tô bày bán ở cửa hàng tạp hóa, là những nhân chứng bụng chứa đầy định kiến, sẵn sàng vô lý định tội; một số khác, lại nữa (như dòng nước đang chảy, hay cơn bão còn vần vũ), vô pháp vô thiên đến điên dại, bụng mang đầy ý nghĩ méo mó về anh ta, coi những hành động của anh ta là khùng điên nhăng nhít. Anh ta phải luôn náu mình trong lớp áo giáp bảo vệ, và dành từng giây phút cuộc đời để giải mã những lớp sóng ùa ạt nhào tới của vạn vật. Chính cái không khí mà anh ta hít thở cũng được đánh số và lưu trữ. Giá như những thứ mang đến niềm hứng khởi cho anh ta chỉ giới hạn ở những gì quẩn quanh thôi, nhưng, trời ạ, nó lại không phải thế. Khoảng cách càng xa, cơn thác đổ của những xì xầm hoang dại càng tăng lên về lưu lượng và mức độ. Hình thù của những huyết cầu nơi anh ta, khuếch tán lên hàng triệu lần, lượn qua những bình nguyên rộng lớn; và ở phía kia xa hơn, những ngọn núi vĩ đại kiên vững và cao vút vượt ngoài sức tưởng tượng, đang tóm tắt lại, qua lời của đá hoa cương và những cây linh sam rên rỉ, chân lý sau rốt về sự tồn tại của anh ta.
Khi cả hai thoát khỏi tiếng rền vang và cái không khí hôi hám ở đường tàu điện ngầm, những giọt nắng cuối ngày như nhập nhòe với ánh sáng đường phố. Bà muốn mua ít cá cho bữa ăn khuya, nên đưa ông cái giỏ quà đựng mấy lọ mứt, bảo ông lại nhà. Theo lời bà, ông trở về khu chung cư tồi tàn, lên đến chiếu nghỉ thứ ba của cầu thang thì sực nhớ ra đã đưa chùm chìa khóa cho bà hồi sớm.
Trong yên lặng, ông ngồi thụp xuống trên bậc, và trong yên lặng ngày càng tịch mịch, tầm mười phút sau, bà về, khệ nệ bước lên cầu thang, miệng cười mếu máo, đầu lắc lư ra vẻ chán ngán trước sự ngờ nghệch của mình. Cả hai bước vào căn hộ hai gian và ông nhanh chân đến trước tấm gương. Ông lấy hay ngón tay cái ngoác miệng, mặt nhăn nhó thảm hại như đang mang chiếc mặt nạ méo mó, đoạn lôi ra hàm răng giả vô dụng và phiền hà mới lắp. Ông đọc tờ báo tiếng Nga trong khi bà sửa soạn bữa tối. Ông lướt qua tờ báo và nhấm nháp thứ súp nhão nhợt chẳng cần màng tới bộ răng. Bà biết tâm trạng ông, nên cũng định bụng chẳng nói lấy nửa lời.
Khi ông đã leo lên giường, bà ngồi một mình trong phòng khách, tỉ mẩn với bộ bài cáu bẳn cùng với cuốn album cũ kĩ. Dưới khoảng sân nhà bé tí, nơi đêm đen, những giọt mưa đang tí tách rơi trên mấy thùng đựng tro, vài cánh cửa sổ đèn vẫn sáng le lói, và đâu đó qua cánh cửa nào đấy, thấp thoáng một người đàn ông mang chiếc quần đen, đôi tay vò chặt lấy đầu, hai khuỷu tay rướn lên, nằm thẳng đuỗn trên chiếc giường bề bộn. Bà kéo tấm rèm che cửa và lục lọi mấy tấm ảnh. Khi còn bé xíu, thằng bé trông khác hẳn mấy đứa trẻ cùng lứa. Bức ảnh cô hầu người Đức hồi còn ở Leipzig chụp chung với ông chồng sắp cưới mặt phụng phệ rơi ra từ xấp ảnh trong cuốn album. Bà lật từng trang: Minsk, cuộc Cách Mạng, Leipzig, Berlin, rồi lại Leipzig, một hiên nhà xiêu vẹo, ảnh gần như mất hết nét. Đây là thằng cu con khi mới lên bốn, đứng trong công viên, cả thẹn, cái trán nhăn nheo, nhìn lơ đãng về phía chú sóc đang tăm tia, như nó vẫn hay thế trước ánh mắt người lạ mặt. Đây là dì Rosa, một quý bà luống tuổi gầy nhom hay la lối om xòm, đôi mắt ánh lên sự giận dữ, người vẫn hay chìm đắm trong một thế giới ì xèo toàn những chuyện giật gân, phá sản, nào tai nạn giao thông, ung thư tăng vọt, cho tận đến khi bà bị những người Đức giết chết, cùng lần với tất cả những người mà bà hằng quan tâm. Đây là thắng bé, lên sáu, khi nó vẽ những chú chim tuyệt đẹp với tứ chi mang bộ dạng người và hay mất ngủ như một người lớn tuổi. Đây là ông anh họ giờ là kì thủ cờ vua nổi tiếng. Đây nữa, lại là thằng bé, khi nó lên tám, đã bắt đầu tỏ ra khó hiểu, sợ giấy dán tường ở hành lang, hoảng hốt trước tấm ảnh nào đấy in trong sách, cái tấm ảnh đơn thuần là phong cảnh đồng quê thôn dã với những móm đá bên sườn đồi và cái bánh của một chiếc xe ngựa cũ kĩ treo lủng lẳng trên một cành cây trụi lá. Đây nữa, nó lên mười - cái năm cả gia đình rời châu Âu. Bà nhớ tới những khó khăn tủi hờn, tổn thương, nhục nhã của chuyến đi, và lũ trẻ xấu xí, ác ý, chậm tiêu mà thằng con học cùng ở ngôi trường đặc biệt mà nó đã bị nhét vào sau khi tới Mỹ. Và rồi, là đây đời nó, gắn chặt với quãng thời gian hồi phục đằng đẵng sau chứng viêm phổi, khi những ám ảnh sợ hãi vẫn còn là mầm mống mà hai ông bà đã sinh ra nó lại khăng khăng cho rằng đấy là những dấu hiệu khác người của một đứa trẻ thần đồng, trở nên trầm trọng hơn, như nó thế, thành một thứ rối tung rối mù của những ảo ảnh móc nối với nhau có vẻ logic, khiến cho những người bình thường chẳng thể nào hiểu được nữa.
Tất cả mớ bùng nhùng ấy, và thêm nhiều thứ khác, bà chấp nhận hết, bởi lẽ, sau tất cả, sống có nghĩa là chấp nhận đánh mất hết niềm vui này đến những niềm vui khác, ngay cả khi chúng chẳng phải là những niềm vui trong cảnh ngộ bà, mà đơn thuần là những khả năng sáng sủa nào đấy. Bà nghĩ về những nỗi đau dai dẳng mà chẳng hiểu vì sao nên nỗi bà và chồng đã phải gánh chịu; nào là chuyện những con quái vật vô hình ám toán thằng con trai theo những kiểu quỷ thần mới hiểu được; lại nữa, là cái sự mỏng manh vô cùng tận nhìn đâu cũng thấy trên khắp quả đất; về số phận của những mỏng manh ấy, chúng bị nghiền nát hoặc ruồng bỏ, bị cuộc đời đưa đẩy thành điên loạn; về những đứa trẻ bị hắt hủi miệng lúng búng ậm ừ trong những góc phố nhơ nhớp; về những cây cỏ dại diễm tuyệt chẳng thể náu mình trước người nông dân.
Đã gần nửa đêm, từ phòng khách, bà nghe tiếng chồng rên ư hử và ngay lập tức lảo đảo lại gần, choàng lên bộ áo ngủ của ông chiếc áo khoác ngoài với cổ dệt bằng lông cừu, chiếc áo ông vẫn ưa dùng thay vì bộ áo choàng tắm màu xanh xinh xắn.
"Tôi không thể chợp được mắt", ông rên rỉ.
"Sao thế ông?", bà hỏi. "Ông mệt thế cơ mà.".
"Tôi không chợp được mắt vì tôi đang chết dần đây", ông nói và nằm bịch xuống ghế.
"Lại là cái dạ dày hở? Ông có muốn tôi gọi bác sĩ Solov không?"
"Đừng, đừng bác sĩ gì hết", ông gào lên. "Cái bọn bác sĩ chết tiệt. Chúng ta phải đưa nó ra khỏi đấy càng nhanh càng tốt. Không thì, chúng ta phải chịu trách nhiệm.... Trách nhiệm!" Ông lật mình, ngồi dậy, hai chân dẫm lên sàn nhà, bàn tay nắm đấm thụi thụi lên trán.
"Được rồi", bà thỏ thẻ. "Sáng mai chúng ta sẽ mang nó về nhà."
"Tôi muốn uống trà", ông nói và bước vào phòng tắm.
Xoay người khó nhọc, bà nhặt lại mấy quân bài và một vài tấm ảnh rơi rớt trên sàn nhà - quân J cơ, quân chín bích, quân xì cơ, bức ảnh cô hầu Elsa và gã bồ dâm đãng. Ông lấy lại tinh thần, nói lớn, "Tôi đã tính cả rồi.Chúng ta sẽ nhường cho nó phòng ngủ. Đến đêm, tôi và bà sẽ lần lượt thay nhau nằm cạnh nó, người kia tranh thủ chợp mắt trên chiếc xô-pha này. Chúng ta sẽ nhờ bác sĩ đến coi cho nó mỗi tuần hai lần. Đừng bận tâm đến những gì Hoàng tử nói. Anh ấy sẽ chẳng phàn nàn gì đâu, vì tính ra sẽ đỡ tốn kém hơn đấy."
Điện thoại reo. Cái giờ mà chẳng mấy khi nó đổ chuông. Ông đứng giữa gian nhà, bàn chân dò dẫm chiếc dép lê mới tuột, ngáp trước mặt vợ như một đứa trẻ sún răng. Vì vốn tiếng Anh tốt hơn, bà luôn là người trả lời điện thoại.
"Cháu có thể nói chuyện với Charlie được không?", giọng cô gái thì thào không ra tiếng ở đầu dây bên kia.
"Cô muốn gọi số nào?... Không. Cô gọi nhầm số rồi."
Bà nhẹ nhàng đặt ống tai nghe xuống rồi đưa tay lên ngực. "Nó làm tôi thấy khiếp đảm", bà nói.
Ông cười, nụ cười thoáng chốc, và lập tức trở lại với cái giọng độc thoại hào hứng. Bọn họ sẽ đưa nó ra khỏi đấy càng sớm càng tốt. Để bảo vệ nó, hai ông bà sẽ giấu dao dựa trong một cái ngăn kéo có khóa. Ngay cả lúc nó điên dồ nhất, nó cũng sẽ chẳng gây nguy hại gì cho ai.
Chuông điện thoại reo lần thứ hai.
Vẫn cái giọng trẻ trung thì thào lo lắng hỏi về Charlie.
"Cô gọi nhầm số rồi. Để tôi giải thích cho vì sao cô nhầm nhé. Cô đã bấm nhầm chữ "o" thay vì số 0 đấy." Bà một lần nữa cúp máy.
Cả hai cùng ngồi xuống, nhấm nháp cữ trà không mong lúc ban khuya. Ông chèm chẹp từng ngụm; khuôn mặt đỏ ửng; thỉnh thoảng ông lắc lắc tách trà để đường tan hết. Đường gân trên phần đầu hói của ông nhô ra đập ngay vào mắt, chùm râu bạc lồ lộ nơi cằm. Món quà sinh nhật nằm đấy trên mặt bàn. Trong lúc bà rót cho tách trà khác, ông đặt lên gọng kính và hí hửng tỉ mẩn coi mấy chiếc lọ bé xíu rực rỡ xanh đỏ vàng. Đôi môi ươn ướt mấp máy hăm hở đánh vần từng nhãn một - nào mơ, nho, mận biển, mộc qua. Ông cầm đến lọ táo, và, điện thoại lại đổ chuông thêm một lần nữa.
Vượng (dịch), từ http://www.newyorker.com/magazine/1948/05/15/symbols-and-signs
PS: Truyện đăng trên tạp chí trên tiêu đề đã bị đổi, một số đoạn bị xiển mất, ví như các chi tiết: hình ảnh lão nông, tên của vị bác sĩ, đoạn lão ông nhổ cái hàm răng giả vv...
Bài của tác giả Thiên Lương: http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-hoa-nghe-thuat/truyen-ngan/20140820/%E2%80%8Bdau-hieu-va-bieu-hieu/634471.html
Bài của bác 5xu có nhắc một đoạn: https://5xublog.org/2016/09/14/nabokov-hieu-gio-va-chuyen-leu-leu/#more-3601
Vài slides cũng dễ hiểu:
https://prezi.com/xarwqcojjzdp/symbols-and-signs/
Mấy bài khá dài, đọc mỏi cả mồm, về truyện này, có nhiều references, như một bài có vẻ khoa học, 3 phần:
https://www.libraries.psu.edu/nabokov/dolinin.htm
Tóm tắt truyện, dễ đọc.
http://self.gutenberg.org/articles/eng/Signs_and_Symbols
Tham khảo thêm về chứng: điên do liên tưởng/ảo tưởng/ảo giác
https://en.wikipedia.org/wiki/Ideas_of_reference_and_delusions_of_reference
http://blog.stephenleary.com/2015/03/referential-mania-and-writer.html
Hai bài sau dành cho học sinh.
http://www.mantex.co.uk/2009/09/26/signs-and-symbols/
Đọc xong bài này thì truyện thấy dễ hiểu liền:
http://www.cummingsstudyguides.net/Guides5/SignsSymbols.html
Cuối cùng, để có thể tìm hiểu thêm truyện này thì có thể tìm đọc cuốn "Anatomy of a Short Story". Bản PDF có sẵn trên mạng. Mình chưa đọc.