Pages

Friday, May 6, 2016

Triết lục địa và triết phân tích : Analytic versus Continental Philosophy

Kile Jones giải thích bằng trích đoạn sau trong Romeo và Juliet (tạm dịch): "Cái tên có gì? Mà từ đấy ta gọi hoa hồng. Và bằng cái tên nào khác chăng nữa, cũng sẽ hương thơm ngát".

1. Ta biết rằng Shakespeare chả thể gặp Wittgenstein, Russell, hay Ryle, tuy nhiên, nếu ông hỏi "What is in a name?" thì lí thuyết mà nói, 

+ Wittgenstein có thể trả lời: "Một điều bí ẩn của các biểu tượng".
+ Russel trả lời "Một lời giải thích của các khá niệm"
+ Ryle: "Rất nhiều vấn đề không cần thiết".
+ Hegel, Husserl, hay Nietzsche ?

2. Phân biệt của Prado về mặt phương pháp:

"Sự đối lập giữa lục địa và phân tích là về mặt phương pháp, đó là, việc tập trung vào phân tích (analysis) hay vào tổng hợp (synthesis). Giới phân tích thường nỗ lực giải quyết tương đối chính xác các vấn đề triết học bằng cách giảm trừ [tách] (reducing) chúng thành các phần và thành các mối quan hệ trong đó các bộ phận, các phần này thuộc về. Giới lục địa thường giải quyết các vần đế lớn theo hướng tổng hợp hay thống nhất, và xem các vấn đề cụ thể là "các phần của những thực thể lớn hơn", và chỉ được hiểu đúng và được xử lý khi đặt vào những thực thể lớn này".

Vậy, triết phân tích quan tâm tới việc phân tích - phân tích tư duy/tư tưởng, ngôn ngữ, luận lý [logic], tri thức, tâm trí... trong khi đó triết lục địa quan tâm tới vấn đề tổng hợp - tổng hợp của hiện đại tính [cái hiện đại] với lịch sử, các cá nhân với xã hội, và để rồi suy đoán ứng dụng.

3. Định nghĩa của Neil Levy:

Triết phân tích là triết "giải quyết vấn đề", còn triết lục địa gần với "truyền thống nhân văn và văn chương nghệ thuật... có xu hướng gắn với chính trị. Hans-Johann Glock cũng theo ý này khi viết: "triết phân tích là khoa học hoặc kĩ năng đáng kinhsl nó sử dụng các kĩ thuật cụ thể để giải quyết các vấn đề riêng rẽ với những kết quả rành mạch".

4. Có vẻ như quá rành mạch trong việc phân tách trên. Ví dụ giới lục địa như Hegel viết về logic, Heidegger viết về ngôn ngữ. Do đó, việc phân tách này chỉ đúng phần nào. 

Hãy trở lại với Immanuel Kant (1724-1804). Kant đưa ra thuyết về tri thức và giải thích làm thế nào "một tri nhận/nhận thức [cognition] tổng hợp có thể là một tiên nghiệm". Một trong các bước quan trọng là phân tích giữa hai địa hạt/lĩnh vực: noumental (vật tự nó - thing-in-itself) và phenomenal (vật ta nhận thức được- cái vẻ nó hiện ra - vật ta biết - vật hiện tượng). Vậy cần phân biệt:

- Vật ta biết như nó hiện ra, vật hiện tượng, thế giới hiện tượng
-  Những gì nằm ngoài mọi khả năng, vật không thể biết như: thượng đế, bất tử, tự do.

Đây là hai cú đánh lại Kant:

- Hegel (1770-1831), ông tổ của triết lục địa, không đồng tình với việc phân tách vật tự nó và vật hiện tượng, nói cách khác, thực tại trong chính nó và thực tại như nó hiện ra [mà ta cảm nhận được]. Hegel cho rằng mọi thực tại là thống nhất trong một Ý niệm (Idea). Vậy chẳng có khoảng cách/lỗ hổng nào về mặt nhận thức (epistemic chasm) giữa cái có thể biết và cái không thể biết, vì chẳng có gì ngoài Ý niệm mà là không được biết. 

Hegel trở thành thuyền trưởng già nua (precursor) cho triết học học lục địa, hướng trọng tâm vào việc mô tả lại [thực tại] đại tổng thể và gộp mọi hướng (văn chương, lịch sử, nghệ thuật...) trong các truy vấn triết học. 

- Hướng thứ hai là từ Cambridge và Vienna: Trong khi Hegel phán pháo vào việc nhận thức thực tại của Kant thì nhóm này oánh vào tiên nghiệm tổng hợp (synthetica priori) của ông. Hướng thứ nhất theo chân Bertand Russel, cùng với hướng tiếp cận giảm trừ, cụ thể, ấy là nguyên tử luận lý (logical atomism), cùng với việc tập trung vào các vấn đề luận lý cụ thể, từ đó tách khỏi truyền thống Hegel. Hướng thứ 2, do Ernst Mach chủ xướng, cho rằng việc kết hợp giữa metaphysics (siêu hình học) và epistemology (nhận thức luận) là nguy hại cho khoa học và cho rằng nhận thức luận của Kant là "kì quái". Trường phái Vienna ra đời, với mục tiêu xóa bỏ siêu hình học (Carnap), khẳng định thế ưu việt của luận lý trong triết học (Gödel), thuyết quy ước ngôn ngữ học (Waismann), bóc trần (debunking) "tổng hợp một tiên nghiệm" của Kant. Tuy nhiên, thay vì phân biệt giữa chân lý tiên nghiệm không thể quan sát được (a priori) và hậu nghiệm (phụ thuộc vào quan sát), nhóm này khẳng định chỉ có những chân lý hoặc là trùng phức (tautology - đúng bởi định nghĩa - [kiểu 2 + 2 =4]) hoặc được chứng thực (bằng quan sát).

Hai hướng này dẫn tới việc phân biệt hai trường phái triết học, dẫn đến những thái độ khác như về siêu hình học và nhận thức luận, từ đó có những phương pháp và quỹ đạo khác nhau.

Heidegger và Wittgenstein

Trong khi nhóm hậu Hegel lục địa==> siêu hình học biện chứng và trường pháp Vienna --> thuyết tri thức dựa vào luận lý, Martin Heidegger (1889-1976) đưa ra thuyết riêng về bản thể luận (ontology), "bản thể luận nghiên cứu con người". Với Heidegger, triết học chỉ cần ontology, "bản thể luận hiện tượng học toàn thể", đặt Being trọng tâm. Ngược với trường phái Vienna coi triết học là chuyện nhận thức luận, Heidegger cho rằng Being có khả năng đi trước tri thức, và hiện tượng này cần được nghiên cứu trước luận lý hay tường giải. Hiện tượng học của Heidegger vì thế tách ra khỏi phân tích luận lý, cố gắng "giải phóng triết học khỏi luận lý". 

Ngược lại, Ludwig Wittgenstein cùng với hàng khủng Tractatus đã tiếp đạn cho triết học phân tích, hướng vào triết học ngôn ngữ, cùng với thuyết mệnh đề như là các bức tranh luận lý của các hiện trạng của thế giới [propositions as logical pictures of states of affairs in the world.]. Nghĩa là, các câu chỉ mang nghĩa nếu chúng vẽ ra các bức tranh như thế. Do đó, cùng với Carnap và Vieanna, Wittgenstein tìm cách xóa bỏ siêu hình học và God-talk (omg, chắc là lời của đấng sáng thế ???, kinh thánh?). 

“trong ngôn ngữ tôn giáo và đạo đức, chúng ta thường sử dụng phép so sánh (similes). Nhưng mỗi so sánh phải là so sánh của cái gì đấy. Nếu chúng ta có thể mô tả một sự kiện bằng phép so sánh, tôi cũng có thể bỏ phép so sánh ấy và mô tả sự kiện mà chẳng cần nó. Bây giờ thì trong trường hợp của chúng ta, ngay khi chúng ta bỏ phép so sánh và đơn giản là đưa ra sự kiện đứng sau đó, chúng ta thấy rằng chẳng còn kiện như thế nữa. Và do đó, giờ thì cái xuất hiện, trong vẻ ban đầu của nó như là phép so sánh, sẽ đơn giản là vô nghĩa".

Hiện sinh luận và thực chứng luận lý

Hiện sinh gắn với Sarte, với ý niệm "bản thể học hiện tượng luận - phenomenological ontology", giờ vẫn có ảnh hưởng tới triết học lục địa hiện tại. Theo Sartre, bản thể luận người thống nhất trong chủ tính hoàn toàn của nó: chúng ta là gì là do lựa chọn và chúng ta trải nghiệm cùng. Dasein (being-there: người ở đó), Sartre xác định người là being tồn tại, bị ném vào thế giới vô luận, phải tìm cách trốn thoát nhưng không thể và trách nhiệm không thể trốn tránh trong hành động của chúng ta. [comment: văn chương quá]. Cần lưu ý tới ý niệm của Camus, trạng thái tồn tại là hoàn toàn vô lý, và nguy hiểm chưa, vô lý có thể dẫn tới tự tử và đau khổ, hoặc tới chủ nghĩa lý tưởng hoặc bị khước từ. Mục đích là cân bằng giữa các cực này.

WWII đã dẫn tới một hệ quả, rằng giới lục địa đã thấy, độc chiếm quyền lực, kể cả bản thân triết học, cũng là đáng ngờ (mistrusted).

Trong lúc ấy thì triết phân tích, đã đánh dấu chấm hết cho vị trí thống trị của Kant ở châu Âu. (Sẽ xen Kant and the Foundation of Analytic Philosophy, trang 5). Phương pháp của triết phân tích như sau: Quy trình "phân tích luận lý" tập trung vào các vấn đề luận lý, các vấn đề triết học và nhận thức luận với các công cụ từ thử nghiệm và quy trình khoa học, tránh những dự đoán siêu hình học. 

Tóm lại bằng một đống hổ lốn trộn hòa: 

1. analytic phenomonology phenomenological analysis
2. scientific history and historically-minded science; 
3. epistemological ethics and ethical epistemology???

Còn chuyện tình trong đời: một anh thì hiện tượng học, hiện sinh, văn chương, chính trị; một anh thì vấn đề của diễn dịch, nghịch lý nói dối.

Xem thêm tại: 
https://philosophynow.org/issues/74/Analytic_versus_Continental_Philosophy

No comments:

Post a Comment